Sự chuyên chế của cái mới - Adam Caruso *

Từ buổi đầu của chủ nghĩa hiện đại, các kiến trúc sư và nhà phê bình cấp tiến đã than phiền về sự thụt lùi của ngành mình – đặc biệt là so với thiết kế của các sản phẩm công nghiệp. Trong diễn ngôn của chủ nghĩa thực chứng, một sự ám ảnh nào đó với cái mới là có thể hiểu được. Tuy nhiên, ngay cả vào thập niên 1920 và 1930, thời kỳ cao trào của nhiệt huyết cách mạng hiện đại, kiến trúc sư vẫn phải đối diện với nền tảng văn hóa cho công việc của mình. Dù đó là Le Corbusier xây dựng “năm điểm” của ông như một phê phán đối với chuẩn mực cổ điển, hay các kiến trúc sư Cộng hòa Weimar giải quyết các điều kiện định cư và cư ngụ, các kiến trúc sư vẫn khó giữ mình trên con đường hẹp của chủ nghĩa quyết định luận.
Vào cuối thế kỷ 20, khi chủ nghĩa tư bản muộn được chấp nhận như hình thái kinh tế chủ đạo, thì hệ tư tưởng của tính mới đã trở nên gắn liền một cách minh bạch với hoạt động của thị trường. Chính vào lúc này đây, hơn bao giờ hết, chỉ có lịch sử văn hóa mới giúp cho kiến trúc tiếp tục trở nên thích hợp. Năng lực tự phản tỉnh và phê phán của kiến trúc là điều làm nó khác biệt với một bên là quảng cáo và một bên là khoa học thuần túy.

Trong một buổi diễn thuyết gần đây tại Architectural Association, sự “dậm chân tại chỗ” của hình thức kiến trúc đã bị so sánh một cách thiếu thiện chí với điện thoại và ô tô. Thế nhưng, trái ngược với nhận thức phổ biến, sự tiến bộ hình thức phần lớn độc lập với phát triển kỹ thuật. Ví dụ, cách vận hành của điện thoại hầu như không thay đổi kể từ khi nó ra đời. Điều quan trọng trong sự phát triển công nghệ truyền thông không nằm ở việc một chiếc điện thoại trông giống chuột Mickey hay trái bóng bầu dục Mỹ, mà ở dung lượng, độ phức tạp và tốc độ của mạng lưới mà thiết bị có thể kết nối. Tương tự, chiếc Porsche 356 sản xuất ngay sau Thế chiến II có dáng dấp rất gần với chiếc Boxster mới, và thậm chí trông còn “đương đại” hơn nhiều mẫu xe thể thao góc cạnh của thập niên 1970.

Trong nền kinh tế thị trường tự do toàn cầu, sự “tĩnh” không bao giờ là đủ. Khi nhu cầu thực sự trong các thị trường hiện hữu đã bão hòa, thì những khao khát giả tạo ngày càng phải được tạo ra và sau đó đáp ứng bởi các tập đoàn đa quốc gia đang tuyệt vọng tìm cách gia tăng thị phần. Trong sơ đồ đó, thiết kế giữ một vai trò ngày càng quan trọng. Khi tiến bộ thực chất ngày càng khó đạt được, thì sự mới lạ về hình thức lại trở thành trọng tâm. Liệu sự ra đời của alcopops (đồ uống pha sẵn có cồn và vị ngọt) có thực sự là một tiến bộ? Người ta được lợi gì từ Word 98 so với các phiên bản trước kết hợp với QuarkXPress, ngoài việc phải chạy trên một nền tảng máy tính mạnh hơn?

Một bộ phận của giới kiến trúc từ lâu đã phục vụ cho quyền lực kinh tế. Cũng giống như sau thời David Carson, font chữ grunge thay thế cho font Baskerville bảo thủ của quảng cáo doanh nghiệp thập niên 1980, thì chủ nghĩa hiện đại mới lại chính là chủ nghĩa cổ điển hậu-hiện đại mới của thập niên 1990, được xây cho cùng một chủ đầu tư, thậm chí nhiều khi bởi cùng một kiến trúc sư đó. Điều đã thay đổi là sự hợp thức hóa về mặt lý thuyết mà lối hành nghề này nhận được từ nhiều nhà thực hành và học giả hàng đầu. Họ cho rằng kiến trúc ngày càng bị gạt ra bên lề và không thể tiếp tục ôm giữ giấc mơ về một sứ mệnh đạo đức. Kiến trúc sư đương đại không còn ở vị trí có thể tự phán xét tình cảnh hành nghề của mình, và nếu ngành này muốn còn thức thời thì phải nắm lấy các sức mạnh khổng lồ của hệ thống kinh tế và hạ tầng ngày nay. Gắn liền với nền tảng gần như chủ nghĩa công năng mới của kiến trúc là niềm tin vào sức mạnh của các công cụ mô tả mới, có thể sắp xếp và chuyển hóa dữ liệu thô của những hệ thống xã hội nền tảng thành những hình thức kiến trúc hoàn toàn mới. Việc thao tác bề mặt phức tạp bằng máy tính tương đối dễ dàng khiến cho không gian phi-Cartesian và bố cục tấm-phân-nhánh (?) trở thành dấu hiệu quen thuộc của kiến trúc mới.

Sự quan tâm gần đây đến sân bay, trung tâm thương mại và hạ tầng xuất phát từ ý tưởng rằng đó là những nơi các quá trình của nền kinh tế đương đại bộc lộ rõ nhất. Trớ trêu thay, chính những loại hình này lại ít cần đến kiến trúc nhất. Như sự phát triển của trung tâm thương mại Bắc Mỹ trong 40 năm qua đã cho thấy, ưu tiên hàng đầu là các yêu cầu của thị trường. Truyền thống thường có nghĩa là đặt các cửa hàng bách hóa lớn hay siêu thị ở hai đầu khu mua sắm, bố trí trục giao thông hai bên với chiều rộng tính toán chính xác và bãi đỗ xe rộng rãi. Khi thị trường bán lẻ đã bão hòa, ngoài khu ăn uống, rạp chiếu phim và khu vui chơi, thì chính diện mạo của trung tâm thương mại cũng được khai thác như một điểm hấp dẫn. Khi kiến trúc sư tham gia vào các chương trình này, kiến trúc bị biến thành sản phẩm hàng hóa và rơi vào sự chuyên chế của cái mới. Tuy nhiên, quá trình thị trường không hề hợp lý hay bất biến. Cơn cuồng loạn đặc trưng cho việc tạo lập thị trường mới và hành vi của các thị trường hiện hữu không thể duy trì bền vững về mặt tài chính, và nghiêm trọng hơn, là không bền vững về môi trường.

Thay vì chọn vị thế cơ hội trước bối cảnh hiện nay, kiến trúc có thể đóng vai trò là một tường thành phê phán chống lại hiện trạng. Không có bằng chứng thuyết phục nào cho thấy kiến trúc nên từ bỏ hơn 400 năm hoạt động trong bối cảnh nghệ thuật tự do, cũng không có bằng chứng cho rằng kiến trúc ngày càng bị gạt ra hơn so với các thời kỳ khác. Tỷ lệ công trình có sự tham gia của kiến trúc sư đã bao giờ vượt quá 1% tổng số xây dựng chưa? Giống như nghệ thuật trong 50 năm qua, kiến trúc có thể đưa ra những chiến lược, mô hình cải thiện gợi mở điều gì có thể đến sau thị trường toàn cầu, và nhắc nhở chúng ta về những điều đang bị loại trừ trong mô hình xã hội hiện nay.

Kiến trúc, theo định nghĩa, gắn với sự “tĩnh”. Nó là việc tạo ra những phát minh vật chất có giới hạn, trong những tình huống cụ thể. Ở dạng tốt nhất, một can thiệp kiến trúc có mối quan hệ phê phán với bối cảnh của nó, và việc xây dựng phần nào đó cũng đối thoại với ngữ cảnh vật chất và xã hội hiện hữu. Ngay cả trong những công trình tầm thường nhất, địa điểm vật lý vẫn là khung nền cho việc cư trú: trong một ngôi nhà, đó là nơi của văn hóa gia đình; trong không gian công cộng, đó là lãnh thổ vật chất của hành động tập thể. Vì dự án kiến trúc tất yếu phải có vị trí, nó không tránh khỏi — dù cố ý hay không — tham gia vào các mẫu hình cư trú đã có. Cũng giống nghệ thuật và văn chương, nhưng khó bỏ qua hơn, kiến trúc góp phần vào ký ức tập thể. Bởi vì không thể có tình trạng tabula rasa (trang giấy trắng), nên các công trình luôn nhắc chúng ta về những điều ta không nhất thiết muốn nhớ.

Điều đáng chú ý là công nghệ ít tác động đến sự phát triển của hình thức kiến trúc. Phần lớn công trình vẫn bộc lộ hệ kết cấu dầm – cột (trabeated tectonic), bất chấp nỗ lực của giới kiến trúc sư. Các hệ như vỏ đơn khối (monocoque) và các kết cấu tự đồng dạng khác, tuy phổ biến trong máy bay và tàu thuyền, lại khó hợp thức hóa trong xây dựng công trình. Sự tồn tại lâu dài của kết cấu dầm – cột không chỉ vì dễ xây mặt bằng vuông vức từ vật liệu thẳng, mà còn vì hình ảnh cột và dầm, cửa sổ có hình thức, viên gạch đá… đều thuộc về một diễn ngôn xây dựng đang tiếp diễn. Những tuyên bố về hình thức “hoàn toàn mới” là vòng vo. Khó có thể tin rằng hình thức hoàn toàn mới thực sự tồn tại, và mệnh lệnh tạo ra hình thức tách rời quá khứ, hứa hẹn một tương lai vượt trội, thực chất lại chống phê phán và bảo thủ. Tình trạng theo đuổi cái mới liên tục trong một tabula rasa rỗng (giống như màn hình trống hứa hẹn vô số thực tại ảo đồng thời) làm suy yếu sự liên tục văn hóa và chối bỏ nơi chốn của các hành động tập thể. Chiến lược hình thức cấp tiến hơn là cân nhắc và biểu đạt cái đang có, cái đã biết. Theo cách đó, sáng tác nghệ thuật có thể phê phán bối cảnh hiện hữu và góp phần vào một diễn ngôn văn hóa tiến triển, đang tiếp diễn.

*Tiểu luận "Sự chuyên chế của cái mới", tác giả Adam Caruso. Bản dịch thuộc quyền sở hữu của alab, nghiêm cấm sao chép dưới mọi hình thức. 

No comments:

Post a Comment