“Chúng tôi đi qua một vùng trung tính ngay trước khi đến Arsenal, vài phố vắng hoe đến mức ta phải tự hỏi liệu có người sống ở đó hay không".
- Patrick Modiano, Ở tiệm cà phê của tuổi trẻ lạc lối.
Khoa học hiện đại kể từ thời Rene Descartes ở thế kỷ 17 đã biết đến nhị nguyên luận. Đó là học thuyết của việc sắp xếp các thực tại về hai cực đối lập, tinh thần và vật chất, âm và dương, chủ thể và đối tượng, tự nhiên và nhân tạo, ngày và đêm, thiện và ác … Các cặp phạm trù ở trong tâm thế cực đoan của việc triệt tiêu lẫn nhau, của mối quan hệ “hoặc là … hoặc là …”, giữa tồn tại và không tồn tại, sống và chết. Đến thế kỷ 18, triết gia Immanuel Kant phát biểu về thuyết bất khả tri cung cấp khả thể của việc không thể tri biết được có thể tương thích với cả hai cực đối lập, giữa duy tâm và duy vật, giữa hữu thần và vô thần, duy nghiệm và duy lý … Điều này cũng có nghĩa là chúng ta được cho phép cư ngụ trong vùng ở giữa. Khu vực mà ở đó các tồn tại có thể tạm thời được trì hoãn khỏi việc định danh hay định tính. Khu vực cho phép xuất hiện cả mối quan hệ “vừa là … vừa là” lẫn “không là … không là…”. Với nhà văn Pháp Patrick Modiano, đó là những “vùng trung tính" của đô thị, những không gian chuyển tiếp, ở “ngưỡng" của các thực tại đã được định ranh và gọi tên. Wolfram Nitsch trong tiểu luận No man’s land - Poetics of a neutral zone đã nêu nhận xét về những “vùng trung tính" ấy như sau ”Trôi dạt vào một vùng trung tính gợi nhắc đến con đường ở giữa hai đường biên giới đồng nghĩa với việc tạm trú ở đó một lúc, nhưng đôi khi đồng nghĩa với việc lạc lối ở đó mãi mãi".