Hiện tượng học của sự tròn - Gaston Bachelard (II)

II. 

Trước khi cung cấp thêm ví dụ, tôi tin rằng nên giản lược một từ trong công thức của Jaspers, nhằm làm cho nó tinh tuyền hơn một cách hiện tượng học. Vì thế, tôi sẽ nói rằng: das Dasein ist rund, tồn tại là tròn. Bởi khi giữ dường như tròn là giữ lại cặp đôi của tồn tại và vẻ ngoài (appearance), trong khi ta có ý là toàn bộ tồn tại ở trong sự tròn của nó. Trên thực tế, nó không phải là câu hỏi của việc quan sát, nhưng của trải nghiệm tồn tại trong sự gần gũi của nó. Sự chiêm nghiệm đầy đủ sẽ chia thành tồn tại quan sát (the observing being) và được quan sát (being observed). Trong phạm vi hạn chế chúng ta đang làm việc, hiện tượng học phải bỏ đi mọi trung gian, mọi chức năng phụ. Rốt cuộc, nhằm đạt được sự tinh tuyền hiện tượng học lớn nhất, chúng ta phải tước bỏ khỏi công thức của Jaspers mọi thứ có thể che đậy giá trị bản thể học của nó. Điều kiện này là cần thiết nếu công thức “tồn tại là tròn" trở thành một công cụ cho phép chúng ta nhận ra tính ban sơ (primitivity) của những hình ảnh nhất định của tồn tại. Tôi nhắc lại, những hình ảnh của sự tròn đầy giúp ta tập trung tư tưởng, cho phép ta trao bản hiến pháp ban đầu (confer an initial constitution) cho chính mình, và khẳng định tồn tại của ta một cách mật thiết, bên trong. Bởi vì khi nó được trải nghiệm từ bên trong, không có những yếu tố bên ngoài, tồn tại không thể là gì khác ngoài tròn.

 Đây có phải là lúc để gợi nhớ triết học tiền Socrate, hay nhắc đến tồn tại theo Parmenidian hay “hình cầu” của Parmenides? Hay, nói một cách tổng quát, nền văn hoá triết học có thể là nền giáo dục dự bị cho hiện tượng học? Dường như không phải. Triết học giới thiệu với ta các ý tưởng đã được điều phối quá tốt đến nỗi chúng ta không tài nào khảo sát và tái khảo sát, hết chi tiết này đến chi tiết khác, như nhà hiện tượng học phải làm từ những buổi đầu. Nếu hiện tượng học của một chuỗi logic của ý tưởng là khả thể, ta phải công nhận rằng nó không thể là một nền hiện tượng học sơ cấp. Mặc dầu vậy, trong hiện tượng học của sự tưởng tượng, chúng ta nhận được lợi thế của tính sơ cấp (elementariness). Một hình ảnh bị phương hại mất đi hiệu lực ban đầu của nó. Quả cầu của Parmenides đã đóng một vai trò quá quan trọng đến nỗi hình ảnh của ông ấy không thể giữ lại được tính ban sơ (primitivity) của nó. Rốt cục, nó có thể không phải là công cụ cần thiết cho nghiên cứu của ta về chủ đề của tính ban sơ của những hình ảnh của tồn tại. Rất khó để có thể chống lại cơn cám dỗ làm giàu hình ảnh của tồn tại của Parmenidian bằng sự hoàn hảo của tồn tại có tính hình học của hình cầu. 

Nhưng tại sao lại nói về việc làm giàu một hình ảnh, khi chúng ta làm rõ nó trong sự hoàn hảo hình học? Ví dụ có thể được cung cấp mà ở đó giá trị của sự hoàn hảo quy cho hình cầu là hoàn toàn bằng lời. Ở đây có một cái ta có thể sử dụng như một phản-ví dụ, ở đó, khá hiển nhiên, tác giả đã thất bại trong việc nhận ra tất cả những giá trị của hình ảnh. Một trong những nhân vật của Alfred de Vigny, một luật sư trẻ, đang tự giáo dục mình bằng cách đọc Meditations của Descartes: Vigny viết, “đôi khi anh lấy những quả cầu ở gần, và sau khi lăn chúng giữa những ngón tay hồi lâu, sẽ chìm vào trong những mơ tưởng khoa học sâu sắc nhất”. Người ta tò mò về những mơ tưởng đó. Tác giả không nói. Ông ấy tưởng tượng rằng việc đọc Meditations của Descartes sẽ giúp ích nếu người đọc bắt đầu lăn một viên đá cẩm thạch giữa những ngón tay? Suy tư khoa học phát triển trên một chân trời khác và triết học Descartes không thể được học hỏi từ một vật thể, huống chi là từ một quả cầu. Được Alfred de Vigny sử dụng, từ sâu sắc, như trong rất nhiều trường hợp, là sự phủ định của sự sâu sắc.

 Không những thế, hiển nhiên là khi một nhà hình học nói về khối tích, anh ta chỉ quan tâm đến các bề mặt hạn chế chúng. Quả cầu của nhà hình học là một thứ trống rỗng, hoàn toàn trống không. Vì lẽ đó nó không thể là một hình ảnh biểu tượng tốt cho nghiên cứu hiện tượng học của ta về sự tròn. 


No comments:

Post a Comment